Nguyên nhân Đài Bắc Trung Hoa

Do nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thành lập, từ Thế vận hội Mùa hè 1952 tại Helsinki trở đi, danh xưng và vị thế của Trung Hoa Dân Quốc bị tranh chấp không ngừng, kéo dài kịch liệt qua hai thập niên. Trước khi chọn ra cách xưng hô "Đài Bắc Trung Hoa" vào năm 1979, đoàn đại biểu Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc từng lần lượt dùng "Trung Quốc" (1924, 1932, 1936, 1948), "Formosa-Trung Quốc" (1956), "Formosa" (1960), "Đài Loan" (1964, 1968) hay "Trung Hoa Dân Quốc" (1972, đông 1976) làm tên đội thi đấu Olympic, đồng thời dùng quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc, tham gia tranh tài quốc tế.[6][7][8]

Ngay trước kỳ thế vận hội tại Helsinki, Phần Lan năm 1952, ngày 17 tháng 7 Ủy ban Olympic Quốc tế triệu tập đại hội lần thứ 47, lần đầu tiên thảo luận "vấn đề Trung Quốc". Đương thời trong 57 ủy viên tham dự đại hội, quyết định được thông qua với tỷ lệ 33/20, theo đó đội thể thao hai bờ đều có thể đồng thời tham gia kỳ thế vận hội này, song đoàn đại biểu Trung Hoa Dân Quốc theo lệnh của chính phủ rút khỏi cuộc thi đấu. Từ đó bắt đầu cuộc chiến cò cưa kéo dài và khốc liệt về vấn đề hai nước Trung Quốc trong giới thể thao quốc tế[9].

Trong kỳ thế vận hội tại Melbourne, Úc vào năm 1956, ủy ban Olympic hai bờ đều phái đại biểu tham gia, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiên trì "Đài Bắc không đi, Bắc Kinh không vào", hy vọng lấy "Ngũ tinh hồng kỳ" thay thế "Thanh thiên bạch nhật mãn địa hồng kỳ" song chưa thành. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không thể tiếp nhận việc Ủy ban Olympic Quốc tế thừa nhận ủy ban Olympic của hai bờ eo biển Đài Loan, nên lệnh cho đội đại biểu nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rút khỏi cuộc tranh tài[10].

Ngày 28 tháng 5 năm 1959, tại đại hội thứ 55 của Ủy ban Olympic Quốc tế tại München, do chịu áp lực từ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nên ra quyết định cực bất lợi cho Trung Hoa Dân Quốc. Theo đó, đề xuất rằng Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc của Đài Bắc do không thể kiểm soát phong trào thế thao Trung Quốc, danh xưng chính thức của họ không thể tiếp tục sử dụng, nếu như sử dụng danh xưng khác để thỉnh cầu thì Ủy ban Olympic Quốc tế sẽ suy xét.

Tháng 7 năm 1960, Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc dùng danh xưng chính thức một lần nữa thỉnh cầu Ủy ban Olympic Quốc tế thừa nhận. Ngày 12 tháng 8 cùng năm, Ủy ban Olympic Quốc tế triệu tập đại hội lần thứ 58 tại Roma, đồng ý cho Trung Hoa Dân Quốc sử dụng "Ủy ban Olympic Trung Hoa", song nhận định ủy ban này chỉ khống chế hữu hiệu khu vực Đài Loan, do đó chỉ có thể sử dụng danh nghĩa "Đài Loan" hoặc "Formosa" tham gia thi đấu. Do đó, tại thế vận hội năm 1960 tại Roma, đoàn đại biểu Trung Hoa Dân Quốc trong lễ khai mạc, đồng phục của vận động viên và sắp xếp danh sách đều chỉ có thể sử dụng danh xưng "Đài Loan" (Formosa). Nhằm kháng nghị hạn chế này, trong lễ khai mạc, tổng cán sự Lâm Hồng Thản tay cầm dải vải trắng ghi "đang kháng nghị" (UNDER PROTEST) đi sau biển tên "Đài Loan" (Formosa), đó là lần kháng nghị tại lễ khai mạc duy nhất được ghi nhận trong lịch sử Thế vận hội.

Sau đó, Trung Hoa Dân Quốc tuy tham gia Thế vận hội năm 1964 tại Tokyo và Thế vận hội năm 1968 tại thành phố Mexico, song vấn đề danh xưng rốt cuộc vẫn mơ hồ không rõ. Mặc dù Ủy ban Olympic Quốc tế đồng ý để Trung Hoa Dân Quốc sử dụng danh xưng "Ủy ban Olympic Trung Hoa", song trên thực tế khi tham gia thi đấu cũng như trong công báo hoặc văn kiện của đại hội vẫn gọi Trung Hoa Dân Quốc là "Đài Loan", do đó vấn đề danh xưng rốt cuộc không được giải quyết thực sự. Đến tháng 10 năm 1968, tại hội nghị hàng năm của Ủy ban Olympic Quốc tế tại thành phố Mexico, vấn đề danh xưng của Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc lại được đưa ra thảo luận, kết quả 32 phiếu thuận/10 phiếu chống đồng ý lấy danh nghĩa Trung Hoa Dân Quốc tham gia tranh tài. Danh xưng "Trung Hoa Dân Quốc" do đó được sử dụng chính thức trong Thế vận hội năm 1972.

Năm 1971, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế ghế của Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc, sau đó cũng dần thay thế địa vị của Trung Hoa Dân Quốc trong rất nhiều tổ chức quốc tế[11]. Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thi hành chính sách "một Trung Quốc", không thừa nhận Trung Hoa Dân Quốc đang thống trị thực tế khu vực Đài Loan là quốc gia chủ quyền. Các quốc gia khác căn cứ theo yêu cầu của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không thừa nhận địa vị quốc gia chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc, phản đối họ tham gia bất kỳ tổ chức quốc tế có thành phần là quốc gia chủ quyền, đồng thời phản đối họ sử dụng danh xưng "Trung Hoa Dân Quốc" tại quốc tế.

Năm 1976, trước khi khai mạc Thế vận hội Mùa hè Montréal, do chính phủ Canada đương thời đã lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Thủ tướng Canada Pierre Trudeau từng lấy vấn đề danh xưng "Trung Quốc" để từ chối cấp thị thực cho đoàn đại biểu Olympic Trung Hoa Dân Quốc. Pierre Trudeau yêu cầu đoàn đại biểu Trung Hoa Dân Quốc đổi danh xưng "Đài Loan" mới được cho nhập cảnh tranh tài. Ngày 9 tháng 7 cùng năm, Dương Truyền Quảng và Kỷ Chính do xông qua cửa khẩu để vào Montréal nên khiến cho truyền thông quốc tế quan tâm đến sự kiện, ngày 16 tháng 7 Ủy ban Olympic Quốc tế triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định đoàn đại biểu Olympic Trung Hoa Dân Quốc lấy danh xưng Đài Loan tham gia tranh tài. Sau đó, Viện trưởng Hành chính viện Tưởng Kinh Quốc khi biết sự việc không tiếp nhận quyết định nên đoàn không tham gia kỳ thế vận hội này[12].

Năm 1979, tại hội nghị của Ủy ban Olympic Quốc tế tại Montevideo, Uruguay, ủy ban Olympic nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được nhận làm thành viên, song ủy ban thông qua việc tiếp tục thừa nhận ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc, song danh xưng cùng hiệu kỳ và bài ca cần nghiên cứu thay đổi. Đương thời, ủy viên Ủy ban Olympic Quốc tế Trung Hoa Dân Quốc Từ Hanh và giới nhân sĩ tiến hành liên hệ bằng nhiều phương diện, điều hợp, phát động một bộ phận ủy viên Ủy ban Olympic Quốc tế liên danh đề xuất sửa đổi, đồng thời trong đại hội với số phiếu ủng hộ 36/26 sửa đổi này được thông qua, thừa nhận Ủy ban Olympic của Bắc Kinh là "Chinese Olympic Committee, Peking", còn Ủy ban Olympic của Đài Bắc là "Chinese Olympic Committee, Taipei", hai bên sử dụng hiệu kỳ và bài ca thế nào thì cần thêm nghiên cứu khác, đồng thời phải được Ủy ban Olympic Quốc tế đồng ý. Tuy nhiên, Trung Quốc đại lục biểu thị không thể tiếp nhận kết quả này[9].

Tháng 6 và tháng 10 năm 1979, Chủ tịch Uỷ ban Olympic Quốc tế Michael Morris lần lượt thông qua quyết định của ủy ban chấp hành tại San Juan, Puerto Rico và Nagoya, Nhật Bản, sử dụng phương thức đầu phiếu thư tín, với kết quả 62/17 phiếu, thừa nhận danh xưng của ủy ban Olympic tại Trung Quốc đại lục là Ủy ban Olympic Trung Quốc, sử dụng quốc kỳquốc ca của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; ủy ban Olympic tại Đài Loan với danh xưng Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa tiếp tục tham gia thế vận hội, đồng thời cần phải đề xuất hiệu kỳ, bài ca khác trước đây để ủy ban chấp hành phê chuẩn. Tháng 12, ủy viên Ủy ban Olympic Quốc tế Từ Hanh đệ trình khiếu nại tại Tòa án địa phương Lausanne, trụ sở của Ủy ban Olympic Quốc tế, rằng quyết định mang tính chính trị này trái với hiến chương Olympic[9].

Thế vận hội Mùa đông năm 1980 tổ chức tại tháng 2 tại Lake Placid, New York, Hoa Kỳ, do thời hạn tới sát nên đội đại biểu Ủy ban Olympic Trung Hoa bèn trên phương diện trình tự pháp luật thỉnh cầu tạm thời đình chỉ hiệu lực của nghị quyết Nagoya, tranh thủ tình hình đội đại biểu Đài Bắc Trung Hoa với quyền lợi bình đẳng tham gia kỳ thế vận hội này. Sau đó, do tòa án Lausane Thụy Sĩ nhận định đoàn đại biểu của Ủy ban Olympic Trung Hoa tuy được Ủy ban Olympic Quốc tế thừa nhận, song không có tư cách hội viên, không có tư cách khiếu nại, do đó bác đề xuất của Ủy ban Olympic Trung Hoa. Đoàn đại biểu Đài Bắc Trung Hoa tham dự thế vận hội mùa đông vì thế rút khỏi tranh tài. Tuy nhiên, khiếu nại của Từ Hanh về việc vi hiến thắng lợi một phần, do vậy Ủy ban Olympic Quốc tế sửa đổi hiến chương, trọng điểm là[9]:

  1. Quy định ủy ban Olympic quốc gia của các quốc gia sử dụng "danh xưng quốc gia", và "quốc kỳ", "quốc ca" tham gia Thế vận hội đổi thành danh xưng "đoàn đại biểu" và cờ, ca tham gia Thế vận hội.
  2. Ủy ban Olympic quốc gia lấy danh nghĩa bản thân tham gia Thế vận hội, mà không lấy danh nghĩa quốc gia tham gia tranh tài.
  3. Cờ và dấu hiệu của ủy ban Olympic quốc gia sử dụng trong thời gian Thế vận hội cần phải xin được Ủy ban Olympic Quốc tế cho phép trước.

Nhằm giải quyết vụ tố tụng này, Ủy ban Olympic Trung Hoa và Ủy ban Olympic Quốc tế đạt được hiệp nghị sơ bộ, chủ tịch hai bên vào ngày 23 tháng 3 năm 1981 ký kết hiệp nghị Lausanne, đồng ý hội danh, hội kỳ và hội huy của Ủy ban Olympic Trung Hoa. Danh xưng của ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc đổi thành "Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa", đồng thời xác định cờ hiệu là "trong hoa mai có dấu hiệu năm vòng tròn". Ủy ban Olympic Quốc tế cũng bằng lòng hiệp trợ khôi phục tư cách thành viên vốn có hoặc thỉnh cầu gia nhập Ủy ban Olympic Quốc tế. Cuối cùng, Ủy ban Olympic Quốc tế đảm bảo bằng văn bản, về sau Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa khi tham gia các hoạt động của Ủy ban Olympic Quốc tế đều được hưởng địa vị quyền lợi bình đẳng như bất kỳ hội viên nào khác[13][14]. Chủ tịch Ủy ban Olympic Trung Hoa Thẩm Gia Minh và Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc tế Juan Antonio Samaranch ký kết hiệp định thư do Ban Chấp hành Ủy ban Olympic Quốc tế chính thức thông qua, từ đó Trung Hoa Dân Quốc tham gia Thế vận hội với danh xưng xác định là "Đài Bắc Trung Hoa"[3][14].

Ngày 6 tháng 4 năm 1989, Bí thư trưởng Ủy ban Olympic Trung Hoa Lý Khánh Hoa và Chủ tịch Ủy ban Olympic Trung Quốc Hà Chấn Lương ký kết hiệp nghị tại Hồng Kông, nội dung là[10]: Đoàn thể thao và tổ chức thể thao khu vực Đài Loan sang Đại lục tham gia tranh tài, hội nghị hoặc hoạt động, sẽ đều gọi là "Đài Bắc Trung Hoa".

Mặc dù trong hiệp nghị không định nghĩa kiểu mô thức tiêu đề và danh xưng này, song dân chúng và truyền thông theo tập quán gọi mô thức tham gia tranh tài này là "mô thức Olympic"[11]. Ngoài tranh tài thể thao, trong tranh tài các lĩnh vực như thể thao điện tử, học thuật hay kỹ thuật, nếu đội nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có tham gia, đội đại biểu của Trung Hoa Dân Quốc chỉ có thể dùng danh nghĩa "Đài Bắc Trung Hoa" tham gia, tức chiểu theo "mô thức ủy ban Olympic" và không thể sử dụng quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc.

Sau đó, khi tham dự các hoạt động liên quan đến Thế vận hội, Ủy ban Olympic Trung Hoa sử dụng quốc kỳ ca Trung Hoa Dân Quốc thay cho quốc ca Trung Hoa Dân Quốc, sử dụng hội kỳ là mẫu hoa mai bên trong có "thanh thiên bạch nhật" và dấu hiệu năm vòng tròn. Đội đại biểu Đài Bắc Trung Hoa, đội đại biểu Trung Quốc và đội đại biểu Hồng Kông Trung Quốc cũng không lệ thuộc lẫn nhau, thành tích và tư cách tranh tài đều được tách riêng. Nhằm tránh đội đại biểu hai bờ đồng thời tiến vào hội trường, bị nhầm là một đội đồng nhất, trải qua đề xuất của Ủy ban Olympic Trung Hoa và hiệp thương, Ủy ban Olympic Quốc tế quy định đội Đài Bắc Trung Hoa vào cuộc theo vần "T" (TPE), còn đội Trung Quốc theo vần "C" (CHN), nhằm phân biệt[3]. Tại Đài Loan dều dùng "đội Trung Hoa" để gọi đội đại biểu quốc gia Trung Hoa Dân Quốc.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đài Bắc Trung Hoa http://210.8.122.120/images/10742/10742-P0000-0000... http://www.stnn.cc/hk_taiwan/200807/t20080718_8158... http://news.sina.com.cn/c/2008-07-11/015415909982.... http://ccu-news.com/06_news09/98CJCseminar_intelsp... http://hk.crntt.com/doc/1009/5/5/2/100955279.html http://hk.crntt.com/doc/1009/8/4/8/100984888.html http://news.ifeng.com/taiwan/3/200807/0713_353_649... http://specials.mingpao.com/cfm/News.cfm?SpecialsI... http://timetables.oag.com/lax http://timetables.oag.com/sfo